4/9/19

Những loài rắn độc ở Việt Nam

Thế giới động vật hay thế giới của loài rắn luôn ẩn chứa những điều lý thú, bất ngờ. Các loài rắn đ‌ộ.c ở Việt Nam phải kể đến: Rắn hổ mang chúa, rắn cạp nong, rắn lục đuôi đỏ... Nhiều loài sở hữu nọc đ‌ộ.c có thể g‌i.ế,t người trong tích tắt.

Những loài rắn độc ở Việt Nam
ảnh minh họa

Đặc điểm sinh học và tập tính

Rắn là tên gọi chung của nhóm các loài động vật bò s‌á.t ăn thịt, không chân thân hình tròn dài. Giống như các loại động vật có vảy khác, rắn là động vật có xương sống, không có mí mắt và tai ngoài.

Phần quai hàm có cấu tạo linh động giúp chúng có thể nuốt những con mồi to lớn hơn nhiều so với đầu của mình.

Rắn săn mồi bằng 2 cách, dùng nọc đ‌ộ.c làm tê liệt con mồi (ở rắn đ‌ộ.c) và quấn xiết con mồi (ở rắn không có đ‌ộ.c). Tuy nhiên đa số các loài rắn không có đ‌ộ.c, chúng thường tránh xa con người và chỉ tấn công khi bị khiêu khích.

Do không có chân nên chúng di chuyển chủ yếu theo hình thức bò trườn. Các kiểu di chuyển cũng rất đa dạng như sóng ngang, uốn lượn nghiêng hoặc bơi,…Nọc đ‌ộ.c ngoài chức năng săn mồi còn là v‌ũ k‌h.í tự vệ của rắn.

Rắn có thể tìm thấy ở mọi châu lục (ngoại trừ Châu Nam Cực) và mọi địa hình, thậm chí trong lòng đại dương hay những nơi có độ cao tới 4900 mét.

Phân loại

Trên 20 họ rắn với 500 chi bao gồm 3400- 3550 loài rắn trên khắp thế giới cho thấy sự thích nghi và phát triển tuyệt vời của loài này.

Do sự đa dạng này, chúng ta sẽ chỉ quan tâm tới những loài có đ‌ộ.c hay không có đ‌ộ.c thường gặp tại Việt Nam.

Cách nhận biết chủ yếu dựa vào đặc điểm bên ngoài như màu sắc, hình dáng đầu và c‌ơ t‌h.ể, cấu tạo răng, theo đó tại Việt Nam có 2 họ rắn cực đ‌ộ.c là hổ mang và rắn lục.

Việt Nam là nơi cư ngụ của gần 200 loài rắn, trong đó 53 loài rắn đ‌ộ.c chủ yếu thuộc hai họ rắn lục và rắn hổ.

Rắn lục sừng

Tên khoa học là Trimeresurus cornutus được tìm thấy ở Việt Nam. Đầu chúng có hình tam giác phân biệt rõ với cổ, mặt trên đầu phủ vảy nhỏ, có vảy trên mắt phát triển thành sừng nên được biết đến là "rắn quỷ", kích thước c‌ơ t‌h.ể khoảng 50cm. Nọc đ‌ộ.c của loài rắn lục sừng được xếp vào Top những loài rắn đ‌ộ.c nhất ở Việt Nam.

Rắn lục đuôi đỏ

Tên khoa học là Trimeresurus albolabris, đây là loài rắn cực đ‌ộ.c trong số các loại rắn lục, mình xanh và đuôi có màu nâu đỏ. Sinh sống chủ yếu trên khu vực núi cao và trong các khu rừng sâu thuộc dãy Trường Sơn, vùng núi thuộc khu vực Tây bắc Việt Nam, hiện nay Cần Thơ cũng có nhưng rất ít. Vừa rồi ở Quảng Ngãi và ở Nam Đàn - Nghệ An cũng đã xuất hiện và vào năm ngoái, chúng đã phân bố đến thành phố Đà Nẵng.

Rắn chàm quạp

Rắn chàm quạp hay còn gọi là rắn khô mộc có tên khoa học là Trimeresurus mucrosquamatus. Sở dĩ có cái tên như vậy bởi màu da của chúng lẫn vào với lá khô, cây khô cực khó phát hiện. Thường gặp ở vùng rừng cao su bạt ngàn miền Đông Nam Bộ, độ nguy hiểm của loài rắn này theo đ‌á.n,h giá của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng thì chỉ đứng sau rắn biển.

Rắn lục von-gen

Tên khoa học là Viridovipera vogeli. Đỉnh đầu và thân của loài này màu xanh lục, phần bụng màu nhạt hơn. Giới khoa học chưa tìm hiểu rõ về thức ăn của rắn lục miền nam. Chúng thường ăn đêm, sống ở trong bụi rậm, lùm cây thấp ở địa hình đồi núi có độ cao từ 900 m đến 1.500 m. Loài rắn này sống ở Gia Lai, Đồng Nai, Lâm Đồng.

Rắn lục đầu bạc

Theo Wikipedia, rắn lục đầu bạc tên khoa học là Azemiops feae được xem là một trong các loài rắn đ‌ộ.c nguyên thủy nhất. Loài này có kích cỡ trung bình, đầu hơi dẹp phân biệt rõ với cổ. Chiều dài c‌ơ t‌h.ể khoảng 80 cm. Chúng sống trên các vùng núi cao lên tới 1.000 m. Tại Việt Nam, rắn lục đầu trắng phân bố ở Cao Bằng, Vĩnh Phú, Lạng Sơn. Số lượng của loài này ngoài tự nhiên còn rất ít.

Rắn lục Trùng Khánh

Tên khoa học là Protobothrops trungkhanhensis. Đây là loài đến nay giới khoa học mới phát hiện ở khu bảo tồn thiên nhiên Trùng Khánh, Cao Bằng, Việt Nam. Rắn lục Trùng Khánh dài khoảng 70 cm, khá nhỏ so với những loài thuộc chi Protobothrops. Chúng sống ở độ cao 500 – 700 m trong các khu rừng thường xanh và rừng mưa núi đá vôi nhiệt đới.

Rắn hổ mang xiêm

Rắn hổ mang xiêm hay còn gọi là rắn hổ mang bành tên khoa học là Naja siamensis. Chúng là loài rắn có nọc đ‌ộ.c gây c‌h.ế,t người. Rắn hổ mang thường tấn công khi bị khiêu khích hay đ‌e d‌ọ.a. Ai bị loài rắn đ‌ộ.c này c‌ắ.n thì chỉ khoảng 30 phút sau sẽ t‌ử v‌o.n,g do chất đ‌ộ.c làm suy hô hấp, dẫn đến ngạt thở và làm tê liệt hoạt động của cơ hoành. Hổ mang thường ăn chuột, chim và ếch. Ở Việt Nam, chúng phân bố chủ yếu ở Nam Trung Bộ và miền nam.

Rắn hổ mang chúa

Rắn hổ mang chúa, tên khoa học là Ophiophagus hannah. Mặc dù không chủ động tấn công con người nhưng vẫn được đ‌á.n,h giá là loài nguy hiểm và đáng sợ trong phạm vi sinh sống của chúng. Không chỉ có khả năng phóng nọc đ‌ộ.c, loài rắn này còn có khả năng khống chế lượng chất đ‌ộ.c khi c‌ắ.n con mồi. Nọc đ‌ộ.c của rắn hổ mang có đ‌ộ.c tố tác động làm tê liệt hệ thần kinh, khiến người bị c‌ắ.n rơi vào hôn mê vào bỏ m‌ạ.n,g.

Rắn hổ đất

Rắn hổ đất hay còn gọi là hổ mang một mắt kính hay hổ phì, tên khoa học là Naja kaouthia. Mỗi khi bị k‌í.c,h t‌h.í,c.h, cổ của loài rắn bành ra rất đáng sợ. Chỉ một lượng nhỏ nọc đ‌ộ.c của loài rắn này cũng có thể khiến con mồi c‌h.ế,t bất đắc kỳ tử.

Rắn biển

Rắn biển có tên khoa học là Hydrophiinae. Chúng thuộc nhóm rắn có nọc đ‌ộ.c sinh sống trong môi trường biển, mặc dù chúng đã tiến hóa từ tổ tiên sống trên mặt đất. Đặc điểm chung của rắn biển là có cấu tạo c‌ơ t‌h.ể theo chiều ngang dẹt giống như những con lươn. Không giống như cá, rắn biển không có mang và thường xuyên phải trồi lên mặt nước để thở. Các loài rắn biển thường có nọc đ‌ộ.c mạnh. Tại Việt Nam các loài rắn biển có nhiều tên gọi khác như rắn đẻn, rắn đẻn biển. Chúng có mặt tại nhiều vùng biển khác nhau của Việt Nam.

Rắn cạp nong

Rắn cạp nong (Bungarus fasciatus) hay còn gọi là rắn cạp nia hoặc rắn mai gầmthuộc họ Rắn hổ (Elapidae). Đây là một trong những loài rắn cực đ‌ộ.c, dù chúng ít khi chủ động tấn công con người nhưng nếu ai đó không may bị chúng c‌ắ.n, nọc đ‌ộ.c có thể g‌i.ế,t c‌h.ế,t n‌ạ.n n‌h.â,n chỉ trong vòng vài phút nếu không được c‌ứ.u chữa kịp thời. Chúng sống phổ biến ở đồng bằng, trung du và miền núi Việt Nam. Chúng kiếm ăn về ban đêm, b‌ắ.t các loài rắn khác, đôi khi ăn cả thằn lằn.

Related Posts: