21/6/19

TS. Võ Xuân Sơn nói gì về tự chủ 4 bệnh viện hàng đầu, thương hiệu khủng?

Sang Úc, tôi được đi thăm một bệnh viện đang xây dựng. Đó là một khu rộng, với những căn nhà thông minh, có thể tự điều chỉnh để đón nắng và gió. Bệnh viện được thiết kế những khu biệt lập, để cho tư nhân thuê, kết nối ngay với các khu của bệnh viện công.

TS. BS. Võ Xuân Sơn
TS. BS. Võ Xuân Sơn

Chính quyền Úc cho rằng, chăm sóc sức khỏe của người dân là nhiệm vụ của nhà nước. Nhà nước thu thuế của dân, và sử dụng đồng tiền thuế ấy để chăm sóc đời sống cho người dân. Ngoại trừ những thứ liên quan đến nha khoa và thẩm mĩ, tất cả các dị.ch vụ y tế mà người dân hưởng, đều do nhà nước trực tiếp trả tiền.


Nhà nước trả tiền cho bệnh viện, cho bác sĩ, điều dưỡng, kĩ thuật viên, cho máy móc, trang thiết bị, vật tư tiêu hao... Người bệnh không phải trả đồng nào. Các bác sĩ được trả phí khi khám bệnh. Phí khá cao. Một bác sĩ gia đình được trả khoảng 50 AUD (tương đương với 799,800 VND) cho một lần khám bệnh. Nếu khám sau 8 giờ tối, phí đó là 80 AUD.


Tuy nhiên, một số bác sĩ giỏi, không đồng ý mức phí đó, mà tăng thêm, ví dụ như ban ngày là 80 AUD, buổi tối thì 120 AUD. Phần chênh lệch người bệnh sẽ phải trả. Có những dị.ch vụ mà nhà nước đáp ứng chậm, chẳng hạn như mổ. Các bệnh viện tư sẽ mổ sớm cho bệnh nhân, với mức phí phụ trội cao hơn mức mà nhà nước trả. Phần chênh lệch bệnh nhân cũng phải tự trả.


Nhà nước khuyến khích các hãng bảo hiểm lập ra các loại hình bảo hiểm y tế, để giúp người dân chi trả các phần chênh lệch (phần của nhà nước thì nhà nước vẫn chi trả bất kể bệnh nhân khám bệnh hay điều trị ở đâu, công hay tư). Ngoài ra, nhà nước khuyến khích tư nhân tham gia vào y tế, để mang đến những dị.ch vụ chất lượng cao hơn, nhanh hơn. Tất cả những dị.ch vụ y tế có thể sinh lời, những khu vực dân cư nào làm dị.ch vụ y tế có lời, nhà nước đều khuyến khích tư nhân tham gia.


Khi tư nhân tham gia vào y tế, nhà nước không phải bỏ vốn đầu tư, tập trung nguồn lực cho các bệnh viện công, lo cho người nghèo, người không có khả năng chi trả thêm. Cứ một người ra bệnh viện tư mổ, thì một người nghèo đang chờ ở y tế công sẽ được mổ sớm hơn.


Nhưng số lượng bác sĩ có hạn. Cho nên, việc di chuyển từ nơi này sang nơi khác có thể làm mất thời gian của lực lượng lao động này.

Chính vì vậy mà nhà nước xây sẵn các khu vực riêng biệt bên trong bệnh viện công, cho tư nhân thuê, để cho các bác sĩ có thể hợp đồng vừa với bệnh viện công, vừa với bệnh viện tư, mà không mất thời gian di chuyển. Ngoài ra, việc để bệnh viện tư gần bệnh viện công cũng giúp cho việc trao đổi thông tin, hồ sơ, và tận dụng các thế mạnh, trang thiết bị của nhau được dễ dàng hơn.


Đó chính là một trong các cách mà chính phủ Úc khuyến khích y tế tư nhân phát triển. Và cũng là cách để họ tiết kiệm ngân sách, tập trung đầu tư cho người nghèo, và cho những loại hình dị.ch vụ, những khu vực địa lí cách trở mà đầu tư y tế không có khả năng sinh lời.


Có thể nói mô hình y tế Úc thật lí tưởng. Việc kết hợp y tế công tư của họ thật hiệu quả và minh bạch. Khi chúng tôi đi thăm các cơ sở y tế Úc, chúng tôi gặp một đoàn gồm các lãnh đạo cao cấp của Bộ Y tế Việt Nam, và một đoàn khác của Quốc hội, cũng đi thăm và tìm hiểu cách thức tổ chức, để tổ chức lại y tế Việt Nam. Qua trao đổi, ai cũng tâm đắc mô hình kết hợp y tế công và y tế tư của Úc.


Và, không biết có phải học tập từ chuyến đi đó không, mà sau chuyến đi đấy, tôi nhận thấy y tế Việt Nam đã đẩy mạnh việc kết hợp công tư. Việc xã hội hóa y tế không còn chỉ là đặt một vài cái máy, mà là xây dựng hẳn những bệnh viện mới, sử dụng thương hiệu, nhân lực của y tế công, do tư nhân đầu tư và thu lợi.


Tuy nhiên cái triết lí cơ bản của việc kết hợp công – tư của y tế Úc, là tạo điều kiện cho y tế tư nhân phát triển, để tập trung nguồn lực cho các đối tượng không có khả năng chi trả, cho các lĩnh vực không sinh lời, như cấp cứu, săn sóc đặc biệt… lại không được Việt Nam lĩnh hội. Trên thực tế, ở Việt Nam, việc xã hội hóa y tế được chia ra làm hai khu vực: khu vực tư nhân, và khu vực tư nhân liên kết với nhà nước, tạm gọi là “tư – công”.


Ở khu vực y tế tư nhân, các doanh nghiệp phải tự bươn chải, tự tạo thương hiệu, tự tìm kiếm nguồn khách hàng. Ngoài việc họ phải tự đầu tư mặt bằng và mọi thứ, họ còn bị bắt buộc đầu tư vào những cái không có lời, như cấp cứu, săn sóc đặc biệt… Họ phải trả lương, đóng bảo hiểm… theo tư nhân, thường là nhiều gấp 3 lần so với khu vực công.


Còn ở khu vực “tư – công”, thì tư nhân chỉ bỏ vốn đầu tư, còn mặt bằng, thương hiệu, khách hàng là của cơ sở công, nhân sự cũng là của cơ sở công. Và lương, phụ cấp, bảo hiểm… cũng trả theo công (thường bằng 1/3 so với tư nhân). Chỉ có lợi nhuận là bỏ túi tư nhân mà thôi.


Đó là sự khác biệt rất lớn. Ở Úc, việc kết hợp công – tư nhằm mục đích tập trung nguồn lực cho người nghèo, thì ở ta, việc kết hợp công – tư tạo ra các nhóm “tư – công”, tận dụng các nguồn lực công để tạo lợi nhuận cho tư nhân, và người nghèo lại bị mất thêm nguồn lực cho họ từ nhà nước.


Dưới cái triết lí y tế “tư – công” như trên, thì việc chuyển 4 bệnh viện hàng đầu, thương hiệu cực kì lớn do được bao nhiêu thế hệ thầy thuốc vun đắp, nguồn khách hàng “khủng” do thương hiệu mang lại, thành bệnh viện tự chủ tài chính, sẽ gần như không mang lại lợi ích gì cho người nghèo - đối tượng mà y tế công phải có trách nhiệm chăm sóc.

» Đã tiêm phòng, nhiều trẻ vẫn có thể mắc viêm não Nhật Bản?
» Ngân hàng Thế giới phê duyệt khoản vay 80 triệu USD hỗ trợ y tế Việt Nam

Related Posts: