11/11/18

DNNN: Lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh phụ thuộc một vài doanh nghiệp lớn

Đánh giá về năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN, đại diện Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, phần lớn doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách của DNNN nằm ở các ngành nghề và lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp.

DNNN: Lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh phụ thuộc một vài doanh nghiệp lớn
ảnh minh họa

Ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Ban Cải cách và phát triển DN (CIEM) cho biết, theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2017), tỷ suất lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp Việt Nam nói chung đạt 3,99%, DNNN đạt 6,62%, doanh nghiệp FDI đạt 6,68% và doanh nghiệp ngoài nhà nước là 1,88%.
Hiệu suất sử dụng lao động của toàn bộ DN là 14,2 lần, DNNN là 18 lần, DN ngoài nhà nước là 14,2 lần, DN FDI là 12,4 lần. DNNN có năng suất lao động theo giá trị gia tăng đạt 243 triệu đồng, DN ngoài nhà nước là 109 triệu đồng và DN FDI là 156 triệu đồng. Nếu tính năng suất lao động theo doanh thu, DNNN đạt 938 triệu đồng, DN ngoài nhà nước là 720 triệu đồng và DN FDI là 595 triệu đồng.
Tuy vậy, theo ông Phạm Đức Trung, số liệu bình quân nêu trên không phản ánh đúng và đầy đủ hiệu quả kinh doanh của phần lớn DNNN.
“Trên thực tế, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của khu vực DNNN phụ thuộc vào một vài DN lớn. Xét trong DN 100% vốn nhà nước, phần lớn nguồn lực tập trung vào 7 tập đoàn và trên 60 tổng công ty nhà nước”, ông Phạm Đức Trung nói.
Riêng 7 tập đoàn kinh tế nhà nước đã nắm giữ 66% tài sản, 66,7% vốn chủ sở hữu nhà nước, tạo ra 61,7% doanh thu, 56,5% lợi nhuận trước thuế và 56,7% thu ngân sách nhà nước của toàn bộ DN 100% vốn nhà nước.
Trong đó, 2 tập đoàn có quy mô lớn nhất là PVN và EVN cùng nhau nắm giữ 48% nguồn vốn kinh doanh và 46% vốn chủ sở hữu Nhà nước; 3 tập đoàn PVN, EVN và Viettel cùng nhau tạo ra 50% doanh thu, 51% lợi nhuận và 52% nộp ngân sách của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
“Mức độ tập trung rất lớn về nguồn lực đầu vào cũng như kết quả đầu ra của DNNN có thể làm sai lệnh bức tranh chung về hiệu quả và sức cạnh tranh của cả khu vực DNNN khi so sánh với các DN khác”, ông Phạm Đức Trung nói.
Hơn nữa, những DN đã tạo ra phần lớn lợi nhuận và giá trị gia tăng cho khu vực DNNN nêu trên cơ bản là hoạt động trong các ngành, lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp, tập trung vào ngành khai thác tài nguyên và tận dụng điều kiện tự nhiên (như ngành khai khoáng) hoặc những ngành, lĩnh vực do DNNN thống lĩnh, chi phối thị trường (như ngành viễn thông, năng lượng).
“Nhìn ở góc độ cải cách thể chế cạnh tranh, phần lớn doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách của DNNN nằm ở các ngành nghề và lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp. Ở các ngành có mức độ cạnh tranh cao giữa các thành phần kinh tế, như: thương mại, xây dựng, công nghiệp chế tạo… thì hiệu quả kinh doanh của DNNN là rất thấp, chứng tỏ áp lực cạnh tranh đã bộc lộ những điểm hạn chế về hiệu quả kinh doanh của DNNN”, ông Phạm Đức Trung nhận xét.

» Kiểm toán Nhà nước yêu cầu PVFCCo điều chỉnh báo cáo tài chính
» Làng Chuông và những trăn trở bảo tồn nghề làm nón truyền thống

Related Posts: