Liên quan đến đến vụ người phụ nữ bị nhân tình tung ảnh khỏa thân gửi đơn lên công an quận Tây Hồ (Hà Nội) kêu cứu, luật sư cho biết khó khởi tố vụ việc vì chứng cứ yếu...
Luật sư Nguyễn Anh Thơm
Tội làm nhục người khác hay truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy?
Theo quan điểm của luật sư Nguyễn Anh Thơm (Đoàn luật sư Hà Nội): Làm nhục người khác là hành vi của một người dùng lời nói hay hành động làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác.Việc xúc phạm này thể hiện bằng lời nói như chửi rủa, xỉ nhục ở nơi đông người, viết, vẽ hãy những hành động có tính chất bỉ ổi như nhổ nước bọt, lột trần truồng nạn nhâ, ném chất bẩn,..Sự xúc phạm nhân phẩm, danh dự người khác phải đến mức độ nghiêm trọng mới truy cứu trách nhiệm hình sự. Sự đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ vào thái độ, nhận thức của người phạm tội, vị trí và môi trường xung quanh, vị thế, vai trò và mối quan hệ của người bị hại trong gia đình, tổ chức như trong xã hội,…
Ở vụ việc này, nguyên nhân phát sinh vụ việc bắt đầu từ một quan hệ tình cảm bất chính giữa đối tượng Bùi Đăng Đ. (45 tuổi, ở huyện Thanh Oai) và chị Thanh (36 tuổi, ở quận Tây Hồ, đã đổi tên) do làm cùng nhau trong Công ty.Tháng 3/2017, nhận thấy không thể níu kéo tình cảm với chị Thanh, ông Đ. nảy ý định làm nhục người phụ nữ này. Ông ta bắt đầu bằng việc gửi cho chồng chị Thanh nhiều ảnh “nóng” chụp chị này trong tư thế nhạy cảm.Tiếp đến, ông ta được cho là lập một tài khoản Facebook, đăng ảnh nhạy cảm của chị Thanh, kèm lời lẽ xúc phạm bạn gái cũ.
Đáng chú ý, trong những ảnh Đ. gửi cho chị Thanh với mục đích đe dọa, có hình một khẩu súng. Xét hành vi của đối tượng Bùi Đăng D đã có dấu hiệu làm nhục chị Thanh khi đưa các hình ảnh khỏa thân của Thanh lên trên mạng Facebook nhằm mục đích bên rếu trước mọi người.
Xem Video: Nữ Sinh Bị Bạn Trai Tung Ảnh Nóng Lên Trang Mạng
Để có căn cứ khởi tố về Tội làm nhục người khác thì cần thiết phải thu giữ và xác định được tài khoản Facebook đó là của đối tượng Đ đưa lên. Tuy nhiên sau đó, tài khoản Facebook này đã bị khóa hay xóa hết các hình ảnh nhạy cảm. Nhưng người bị hại đã chụp lại được Facebook, tin nhắn có các hình ảnh nhạy cảm của mình và đi tố cáo đến Cơ quan Công an. Các hình ảnh nhạy cảm mà Bị hại chụp lại được gửi kèm theo đơn tố cáo đến Cơ quan Công an thì cần thiết phải giám định của cơ quan chuyên môn xác định hình ảnh đó có bị cắt ghép hay chỉnh sửa không để là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng.
Mặt khác, trong vụ việc này, nếu xác định đối tượng Đ đưa ảnh chị Thanh lên Facebook thì lại cùng có cả ảnh của mình nên việc xác định hành vi làm nhục người khác cũng đồng nghĩa là làm nhục cả chính mình. Do đó, xét về mặt lý luận tội làm nhục người khác cũng chưa phù hợp.
Việc đưa ra xử lý về tội làm nhục cần có chứng cứ vật chất và trực tiếp như biên bản bắt quả tang hoặc vật chứng thu giữ đc là ảnh, video. Nhưng vụ việc này không bắt được quả tang. Cơ quan điều tra chỉ thu giữ được các bức ảnh được Bị hại chụp lại được qua Facebook mà theo bị hại tố cáo đối tượng đã tải lên mạng xã hội. Những hình ảnh này chưa được giám định của Cơ quan chuyên môn theo qui định của pháp luật.
Nếu quá trình xác minh tin báo tố giác về tội phạm trên không có dấu hiệu tội làm nhục, thì xem xét hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo Điều 253 Bộ luật hình sự 1999 để xử lý. Tuy nhiên về Tội này thì cũng khó xử lý vì hành vi truyền bá văn hóa đồi trụy lại của chính bản thân mình và cùng với chị Thanh.
Không có căn cứ bắt khẩn cấp?
Căn cứ Khoản 1 Điều 121 Tội làm nhục người khác theo Bộ luật hình sự 1999 có qui định hình phạt tù đến 02 năm tù.
Căn cứ Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 qui định Bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
1. Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp: a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Căn cứ Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 qui định về Tạm giam
1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Theo quan điểm của luật sư, đây là vụ việc có dấu hiệu Tội làm nhục người khác nhưng cần phải có nhiều thời gian xác minh làm rõ để có căn cứ xử lý theo qui định của pháp luật.
Mặt khác, Bộ luật tố tụng hình sự đã qui định không có căn cứ tạm giam thì không có căn cứ để bắt khẩn cấp. Do vậy, VKSND Quận Tây Hồ không phê chuẩn quyết định bắt khẩn cấp đối tượng về hành vi làm nhục người khác là có căn cứ theo qui định.
Không có căn cứ khởi tố về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng?
Ngày 4/4, Cơ quan điều tra tiếp tục ra lệnh khám xét khẩn cấp nhà người đàn ông này ở huyện Thanh Oai. Quá trình khám xét, cảnh sát thu 1 khẩu súng colt quay màu vàng, 1 khẩu súng nhựa và 50 viện đạn các loại.
Ngày 14/4, Viện khoa học hình sự kết luận giám định khẩu súng ngắn màu vàng là dạng súng ngắn ổ quay, đạn cỡ 5,6 mm, tính năng và tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng, thuộc vũ khí quân dụng. Sử dụng súng bắn vào cơ thể người có thể gây tử vong hoặc bị thương.
Theo quan điểm của Luật sư, Kết luận giám định là vũ khí có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng. Vũ khí quân dụng ở đây phải là súng quân dụng dùng trong lực lượng vũ trang. Khởi tố Tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng là trái quy định của pháp luật, bởi Bộ luật hình sự 2015 quy định tại Điều 306 “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các vũ khí khác có tính năng tác dụng tương tự”. Điều kiện của cấu thành cơ bản phải bị xử lý hành chính về hành vi này. Nếu đối tượng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này và trong thời hiệu thì không có căn cứ để khởi tố.
Căn cứ Nghị quyết 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về thi hành Bộ luật hình sự 2015, kể từ ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố: “Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm”
Căn cứ Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi thi hành Bộ luật hình sự 2015, Bộ luật tố tụng 2015 đã qui định “ Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 tại điểm a khoản này” Công văn 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao bỏ sót khi thống kê hướng dẫn những tình tiết có lợi cho người phạm tội. Tuy nhiên, về nguyên tắc chung vẫn áp dụng các nguyên tắc có lợi cho người phạm tội.
Điều 306 Bộ luật hình sự 2015. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các vũ khí khác có tính năng tác dụng tương tự.
1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các loại vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự như súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có 11 đơn vị súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ hoặc vũ khí không thuộc danh mục vũ khí do Chính phủ ban hành nhưng có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng trở lên;
c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
d) Làm chết 01 người trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
g) Gây thiệt hại về tài sản 100.000.000 đồng trở lên;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.